Hóa thạch là gì? 2. Vai trò của hóa thạch II. LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN CỦA SINH Bài giảng môn Sinh học Lớp 12 - Bài 33: Sự phát triển của sinh giới qua các đại địa chất - Trường THPT Nam Duyên Hà Hiện tượng trôi dạt lục địa. 2. Sinh vật trong các đại địa chất
Trái đất là một hành tinh trong hệ Mặt trời, vào thời điểm sau khi hình thành (cách đây khoảng 4,5 tỷ năm), Trái đất là một quả cầu lạnh, không có khí quyển, tự quay. xung quanh Mặt trời. Sự phân hủy của các chất phóng xạ làm cho quả cầu Trái đất nóng
Mảng kiến tạo, xuất phát từ thuyết kiến tạo mảng, là một phần của lớp vỏ Trái Đất (tức thạch quyển).Bề mặt Trái Đất có thể chia ra thành 7 mảng kiến tạo chính và nhiều mảng kiến tạo nhỏ. Thuật ngữ mảng kiến tạo (tectonic plate hay plaque) hay bị dùng sai thành đĩa kiến tạo hay địa tầng kiến tạo.
Thời kì này Trái Đất vẫn trong giai đoạn kiến tạo mạnh mẽ, có sự phân bố lại lục địa và đại dương. Trên cạn núi lửa hoạt động, tia tử ngoại tác động trực tiếp lên bề mặt Trái Đất đẫn đến chỉ xuất hiện sinh vật bậc thấp và vẫn sống tập trung dưới nước. 1. Hiện tượng trôi dạt lục địa. 2. Sinh vật trong các đại địa chất
Trôi dạt lục địa là hiện tượng các phiến kiến tạo trên lớp vỏ trái đất liên tục di chuyển do lớp dung nham nóng chảy bên dưới chuyển động. Những biến đổi về kiến tạo của vỏ trái đất như quá trình tạo núi, trôi dạt lục địa dẫn đến thay đổi rất mạnh
Hiện tượng trôi dạt lục địa- Các phiến kiến tạo liên tục di chuyển do lớp nhung nham nóng chảy bên dưới chuyển động, hiện tượng di chuyển của các lục địa như vậy được gọi là hiện tượng trôi dạt lục địa. 2. Sinh vật trong các đại địa chất
qixovS. Câu hỏi Trôi dạt lục địa là hiện tượng A. Di chuyển của các phiên kiến tạo do sự chuyển động của các lớp dung nham nóng chảy. B. D chuyển của các lục địa, lúc tách ra lúc thì liên kết đang xem Trôi dạt lục địa là hiện tượng C. Liên kết của các lục địa tạo thành siêu lục địa Pangaea. D. Tách ra của các lục địa dẫn đến sự biến đổi mạnh mẽ về khí hậu và sinh vật. Trả lời Đáp án đúng A. di chuyển của các phiến kiến tạo do sự chuyển động của các lớp dung nham nóng chảy. Trôi dạt lục địa là hiện tượng di chuyển của các phiến kiến tạo do sự chuyển động của các lớp dung nham nóng chảy. Cùng Sài Gòn Tiếp Thị tìm hiểu thêm nhé! Nội dung1. Lịch sử phát triển của sinh giới qua các đại địa chất2. Bằng chứng về sự trôi dạt lục địa3. Tranh cãi về sự trôi dạt lục địa 1. Lịch sử phát triển của sinh giới qua các đại địa chất a. Hiện tượng trôi dạt lục địa Hiện tượng trôi dạt lục địa là hiện tượng các phiến kiến tạo trên lớp vỏ trái đất liên tục di chuyển do lớp dung nham nóng chảy bên dưới chuyển động. Những biến đổi về kiến tạo của vỏ trái đất như quá trình tạo núi, trôi dạt lục địa dẫn đến thay đổi rất mạnh điều kiện khí hậu của trái đất, do vậy có thể dẫn đến những đợt đại tuyệt chủng hàng loạt các loài và sau đó là thời điểm bùng nổ sự phát sinh các loài mới. b. Sinh vật trong các đại địa chất – Căn cứ vào những biến đổi lớn về địa chất khí hậu, các hoá thạch điển hình. – Người ta chia lịch sử Trái Đất kèm theo sự sống thành 5 đại Đại Thái cổ, đại Nguyên sinh, đại Cổ sinh, đại Trung sinh, đại Tân sinh. * Nhận xét về sự phát triển của sinh giới – Lịch sử phát triển của sinh vật gắn liền với lịch sử phát triển của vỏ quả đất. Sự thay đổi điều kiện địa chất, khí hậu đã thúc đẩy sự phát triển của sinh giới. – Sự thay đổi điều kiện địa chất, khí hậu thường dẫn tới sự biến đổi trước hết ở thực vật và qua đó ảnh hưởng tới động vật và có tính dây chuyền trong quần xã. – Càng về sau nhịp độ tiến hóa diễn ra với tốc độ càng nhanh do sinh vật đã đạt được những trình độ thích nghi hoàn thiện hơn, bớt lệ thuộc vào môi trường. 2. Bằng chứng về sự trôi dạt lục địa Bằng chứng về sự trôi dạt của các lục địa hiện nay rất nhiều. Các hóa thạch động thực vật có tuổi như nhau ví dụ hóa thạch của một loại cá sấu được tìm thấy ở Brasil và Nam Phi được tìm thấy ở bờ của các lục địa cho thấy rằng chúng đã từng có một nguồn gốc chung. Hình dáng các bờ của Nam Mỹ và châu Phi có thể xếp khít lại được với nhau. Trong hàng triệu năm, đáy biển bị di chuyển, các lục địa bị trôi dạt và lực kiến tạo mảng tectonophysics sẽ làm cho các lục địa rời xa nhau hơn và xoay hai lục địa này. Đó là điều mà Alfred Wegener nghiên cứu và đưa ra giả thuyết của ông. 3. Tranh cãi về sự trôi dạt lục địa Trước khi có nhiều bằng chứng địa lý học thu thập được từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai, ý tưởng về sự trôi dạt của các lục địa đã từng gây ra tranh cãi nảy lửa giữa các nhà khoa học. Ngày 15 tháng 11 năm 1926, Hiệp hội Địa chất Dầu mỏ Mỹ AAPG mở một hội thảo, trong đó bàn cãi về thuyết lục địa trôi dạt. Kết quả là tập các bài báo ra đời năm 1928 với tên Lý thuyết về trôi dạt lục địa Theory of continental drift. Wegener cũng viết bài cho tập này. Vấn đề gây khó hiểu nhất trong lý thuyết của Wegener là các lục địa bị “đào xới” lên từ nền đá của các đại dương. Đa số các nhà địa chất học đã không tin như vậy. Thuyết kiến tạo mảng, một phiên bản cập nhật hiện đại cho ý tưởng của Wegener, giải nghĩa chuyển động của các lục địa thông qua sự tách giãn đáy đại dương. Các lớp đá mới được hình thành nhờ hoạt động của núi lửa ở các dãy núi giữa các đại dương và sẽ quay trở về vỏ Trái Đất tại các vực sâu của đại dương. Đáng chú ý là, trong tập bài báo xuất bản năm 1928 của AAPG, G. A. F. Molengraaf làm việc tại Viện Công nghệ Delft nay là Đại học Công nghệ Delft đã đề xuất một mô hình về tách giãn đáy đại dương khi miêu tả sự mở rộng của Đại Tây Dương và đới tách giãn Đông Phi. Giả thuyết này vẫn cần kiểm tra thêm bằng các bằng chứng thực nghiệm. Hiện tượng trôi dạt lục địa ảnh hưởng như thế nào đến sự tiến hoá của sinh giới? – Hiện tượng trôi dạt lục địa ảnh hưởng rất lớn đến điều kiện khí hậu Trái Đất. – Ví dụ, khi các lục địa liên kết lại với nhau thành siêu lục địa thì cùng trung tâm của siêu lục địa sẽ trở nên khô hạn hơn nhiều và ngược lại. – Sự trôi dạt lục địa cũng ảnh hưởng đến sự phát tán và sự tiến hoá của sinh vật. – Sự trôi dạt lục địa cũng làm xuất hiện các dãy núi, động đất. sóng thần… dẫn đến làm tuyệt chủng nhiều loài sinh vât. Đăng bởi Sài Gòn Tiếp Thị Chuyên mục Lớp 12, Địa Lý 12
Trôi dạt lục địa là sự chuyển động tương đối với nhau của các lục địa trên Trái đất. Giả thuyết trôi dạt lục địa được nhà khoa học người Đức Alfred Wegener đưa ra lần đầu tiên vào năm 1912. Quan điểm cho rằng các lục địa từng nối liền với nhau xuất hiện vào khoảng thế kỷ 16 dựa trên ý tưởng của Abraham Ortelius, một nhà địa lý học đồng thời là chuyên gia vẽ bản đồ người Flemish Bỉ. Ortelius đã tạo ra tập bản đồ atlas hiện đại đầu tiên mang tên Theatrum Orbis Terrarum Nhà hát của Thế giới. Ông nhận thấy hình dạng đường bờ biển của châu Mỹ và châu Âu/châu Phi dường như trùng khớp với nhau như những mảnh ghép trong trò chơi ghép hình. Do đó, ông đề xuất chúng dần dịch chuyển rời xa nhau theo thời gian do động đất và lũ lụt. Tuy nhiên phải hơn 300 năm sau, lý thuyết về sự trôi dạt lục địa mới chính thức được đưa ra bởi Alfred Wegener, một nhà khoa học người sinh ra ở Berlin, Đức vào năm 1880. Ông bảo vệ thành công luận án tiến sĩ thiên văn học tại Đại học Berlin năm 1904, nhưng sự quan tâm của ông trong lĩnh vực khoa học rộng hơn nhiều bao gồm cả địa vật lý, khí tượng học và khí hậu học. Những nghiên cứu của ông về khí tượng học đặc biệt quan trọng, vì ông là người đi tiên phong trong việc sử dụng khí cầu để theo dõi hoàn lưu khí quyển và xuất bản một cuốn sách giáo khoa tiêu chuẩn được sử dụng rộng rãi. Khi trở thành giảng viên tại Đại học Marburg, ông dành thời gian tham gia các cuộc thám hiểm đến đảo Greenland vào năm 1906 và 1912 để nghiên cứu về sự lưu thông không khí vùng ngày nọ, khi đang nghiên cứu tài liệu trong thư viện của trường Đại học Marburg, Wegener tình cờ bắt gặp một bài báo khoa học liệt kê hóa thạch thực vật và động vật trên các vùng đất nằm ở hai phía đối diện của Đại Tây Dương. Ông nhận ra sự giống nhau đáng chú ý giữa các loại đá và hóa thạch, đặc biệt là hóa thạch thực vật. Cũng giống như Ortelius, Wegener nhận thấy hình dạng của các lục địa có thể ghép nối trùng khớp với nhau, ví dụ bờ Tây của châu Phi khớp với bờ Đông của Nam Mỹ. “Một niềm tin về tính đúng đắn của thuyết trôi dạt lục địa đã ăn sâu vào tâm trí tôi”, Wegener cho 6/1/1912, Wegener lần đầu tiên trình bày thuyết trôi dạt lục địa tại một cuộc họp của Hiệp hội Địa chất Đức diễn ra ở Frankfurt, ngay trước khi ông thực hiện một cuộc thám hiểm khoa học khác đến Đan Mạch và Greenland. Điều này mâu thuẫn với giả thuyết đang thịnh hành vào thời điểm đó – khi các nhà địa chất cho rằng những cây cầu đất liền land bridge từng kết nối các lục địa với nhau nhưng bây giờ đã chìm xuống đáy đại Wegener, các lục địa từng là một khối đất liền duy nhất, sau đó chúng bị tách ra do lực ly tâm của Trái đất khi quay tròn hoặc hiện tượng tuế sai. Wegener ban đầu nghĩ rằng sống núi giữa đại dương có thể đóng một vai trò nào đó, vì đáy biển Đại Tây Dương liên tục bị “xé toạc” khiến vật chất nóng chảy trong lòng Trái đất phun trào lên. Nhưng cuối cùng ông từ bỏ quan điểm những năm tiếp theo, Wegener tìm kiếm thêm nhiều ví dụ về các sinh vật giống nhau trên những lục địa tách biệt. Đến năm 1915, ông tổng hợp bằng chứng thu thập từ nhiều ngành khoa học để hỗ trợ cho lý thuyết của mình và viết thành cuốn sách “The Origin of Continents and Oceans” Nguồn gốc của các lục địa và đại dương. Trong đó, ông gọi tên khối đất liền chứa tất cả các lục địa là Urkontinent. Ông cũng tiếp tục tiến hành các cuộc thám hiểm để thu thập thêm bằng chứng, cập nhật luận thuyết của mình cho phù hợp. Phiên bản cuối cùng của cuốn sách được xuất bản ngay trước khi ông qua đời vào năm 1930 với một nhận xét mới “Các đại dương trẻ hơn về mặt địa chất thường nông hơn so với các đại dương có độ tuổi lớn.”Lý thuyết mới của Wegener đã gặp phải nhiều sự hoài nghi, đặc biệt là từ các nhà địa chất. Hiệp hội Các nhà địa chất Dầu mỏ Mỹ AAPG ghét bản dịch cuốn sách của ông đến nỗi họ đã tổ chức một hội nghị chuyên đề để phản đối lý thuyết trôi dạt lục địa. Trong số các nhà khoa học phỉ báng Wegener có nhà địa chất học Franz Kossmat, người cho rằng lớp vỏ đại dương là quá cứng để các lục địa có thể di không thực sự chỉ ra được cơ chế của hiện tượng trôi dạt lục địa một cách thuyết phục để cộng đồng khoa học chấp nhận rộng rãi. Nhưng lý thuyết của ông cũng được ủng hộ bởi một số nhà khoa học nổi tiếng như Arthur Holmes nhà địa chất người Anh và Alexander Du Toit nhà địa chất người Nam Phi.Vào thập niên 1950, nhiều cuộc thăm dò lớp vỏ Trái đất dọc theo đáy đại dương cung cấp bằng chứng cho thấy các lục địa thực sự di chuyển trên các mảng kiến tạo đang bị tách giãn hoặc hút chìm ở sống núi giữa đại dương. Đến cuối thập niên 1960, thuyết kiến tạo mảng ra đời và nhanh chóng trở nên phổ tư cách là một nhà thám hiểm, Wegener qua đời trong chuyến thám hiểm cuối cùng đến đảo Greenland. Năm 1930, nhóm của ông bắt đầu cuộc hành trình với mục tiêu thiết lập ba trạm nghiên cứu cố định trên các tảng băng của hòn đảo này nhằm theo dõi độ dày của chúng và quan sát thời tiết Bắc Cực quanh năm. Để cuộc thám hiểm thành công, Wegener cần di chuyển từ West Camp đến một địa điểm gọi là Eismitte, nơi nhóm dự định cắm trại qua mùa đông lạnh lên đường cùng với một chàng trai 23 tuổi tên là Rasmus Villumsen, nhà khí tượng học Fritz Loewe và 13 người bản địa Greenland trên những chiếc xe trượt tuyết chở đầy những vật dụng cần thiết. Nhưng nhiệt độ giảm xuống -60°C, trời lạnh đến mức khiến Loewe phải cắt bỏ ngón chân bị đóng băng của mình. Hầu hết những người bản địa quay trở lại West Camp cùng với Loewe. Hai người đàn ông cuối cùng đến được Eismitte bao gồm Wegener và băng tan muộn hơn so với mức trung bình khoảng 6 tuần nên Wegener và Villumsen ở Eismitte quyết định quay trở lại West Camp sớm hơn dự kiến, bởi vì họ không đủ nhiên liệu sưởi ấm cho mùa đông. Hai người đàn ông khởi hành với hai con chó kéo xe trượt tuyết. Trên đường đi, họ phải giết từng con để làm thức ăn và phải đối mặt với cái giá lạnh khủng khiếp của vùng Cực. Dù đã nỗ lực hết mình nhưng cuối cùng không ai trở về được căn cứ West Camp. Người ta tìm thấy thi thể của Wegener vào ngày 12/5/1931 được Villumsen chôn cất cẩn thận và đánh dấu bằng ván trượt. Điều đó tức là, thi thể của Villumsen cho đến nay vẫn còn chưa được tìm thấy.
trôi dạt lục địa là hiện tượng