Ta về, ta nhớ những hoa cùng người Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng Ngày xuân mơ nở trắng rừng Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang Ve keo rừng phách đổ vàng Nhớ cô em gái hái măng một mình Rừng thu trăng rọi hòa bình Ngày xuân mơ nở trắng rừng Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang. Bao trùm lên cảnh vật mùa xuân là màu trắng dịu dàng, trong trẻo, tinh khiết của hoa mơ nở khắp rừng: "Ngày xuân mơ nở trắng rừng". "trắng rừng" được viết theo phép đảo ngữ và từ "trắng" được 04, Tháng 03, 2021 | 07:07 Những ngày này, hoa ban nở trắng núi rừng Điện Biên và tạo nên khung cảnh tuyệt đẹp. Vẻ đẹp trong trắng, thuần khiết của loài hoa này dễ làm say đắm lòng người. Những ngày này, khắp núi rừng Điện Biên được phủ một màu trắng tinh khôi của hoa ban. Đứng giữa rừng mơ Mộc Châu trong một ngày nắng xuân, bạn sẽ ngỡ như mình đang lạc vào một thế giới tiên cảnh. Từng chùm hoa mơ trắng xóa như ríu rít gọi xuân về. Bầu trời xanh ngắt không một gợn mây, rừng mơ phủ lên mình một lớp hoa dầy, trắng như tuyết vậy. Mùa xuân là khoảng thời điểm đẹp nhất trong năm về cả thời tiết lẫn cảnh sắc. Trên mọi nẻo đường ngập tràn sắc hoa tươi thắm với đủ màu sắc. Nhưng có lẽ màu của những cảnh hoa đào rừng, hoa mận trắng của vùng SaPa là có một sức hút đặc biệt với du khách. Đầu xuân hoa nở trắng rừng, cuối hội du khách có thể mua về làm quà những quả mơ vàng ươm, thơm đượm hương núi. Lễ hội chùa Hương là nơi hội tụ các sinh hoạt văn hóa dân tộc độc đáo như bơi thuyền, leo núi và các chiếu hát chèo, hát văn … Vào những ngày tổ chức lễ hội, chùa Hương tấp nập vào ra hàng trăm thuyền. hVkXE. Dàn ý số 1I. MỞ BÀI– Việt Bắc , khúc ca trữ tình nồng nàn, đắm say về những lẽ sống lớn, ân tình lớn của con người cách mạng.– Nỗi nhớ hướng về cảnh và người ở quê hương Việt Bắc là một nội dung nổi bật của bài thơ, được thể hiện hết sức xuất sắc trong đoạn thơ THÂN BÀI– Hai dòng đầu của đoạn thơ vừa giới thiệu chủ đề của đoạn, vừa có tính chất như một sự đưa đẩy để nối các phần của bài thơ lại với nhau. Người ra đi đã nói rõTa về, ta nhớ những hoa cùng nỗi nhớ của người đi, cảnh vật lẫn con người Việt Bắc hòa quyện với nhau thành một thể thống nhất.– Trong tám dòng thơ tiếp theo, tác giả tạo dựng một bộ tranh tứ bình về Việt Bắc theo chủ đề Xuân – Hạ – Thu – Đông. Ngòi bút tạo hình của nhà thơ đã đạt tới trình độ cổ điển. Bút pháp miêu tả nhất quán câu lục để nói cảnh, còn câu bát dành để “vẽ” người.– Bức thứ nhất của bộ tranh tả cảnh mùa đông. Màu hoa chuối đỏ tươi đã làm trẻ lại màu xanh trầm tịch của rừng già. Sự đối chọi hai màu xanh – đỏ ở đây rất ảnh con người được nói tới sau đó chính là điểm sáng di động của bức tranh. Tác giả thật khéo gài con dao ở thắt lưng người đi trên đèo cao khiến hình ảnh đó trở nên nổi bật. – Bức tranh thứ hai tả cảnh mùa xuân bằng gam màu trắng. Xuân về,rừng hoa mơ bừng nở. Màu trắng tinh khiết của nó làm choáng ngợp lòng người. Âm điệu hai chữ “trắng rừng” diễn tả rất đạt sức xuân nơi núi rừng và cảm giác ngây ngất trong lòng người ngắm đan nón có dáng vẻ khoan thai rất hòa hợp với bối cảnh. Từ “chuốt” vừa mang tính chất của động từ vừa mang tính chất của tình tứ.– Bức tranh thứ ba nói về mùa hè. Gam màu vàng được sử dụng đắt địa. Đó là “màu” của tiếng ve quyện hòa với màu vàng của rừng phách thay lá. Do cách diễn đạt tài tình của rừng phách, ta có cảm tưởng tiếng ve đã gọi dậy sắc vàng của rừng phách và ngược lại sắc vàng này như đã thị giác hóa tiếng ảnh “cô gái hái măng một mình” xuất hiện đã cân bằng lại nét tả đầy kích thích ở trên. Nó có khả năng khơi dậy trong ta những xúc cảm ngọt ngào.– Bức tranh thứ tư vẽ cảnh mùa thu với ánh trăng dịu mát, êm đềm. Trên nền bối cảnh ấy, “tiếng hát ân tình thủy chung” ai đó cất lên nghe thật ấm lòng. Đây là tiếng hát của ngày qua hay tiếng hát của thời điểm hiện tại đang ngân nga trong lòng người sắp phải giã từ Việt Bắc?III. KẾT BÀIĐoạn thơ có vẻ đẹp lộng lẫy đã được viết bằng một ngòi bút điêu luyện. Đọc nó, ấn tượng sâu sắc còn lại là nghĩa tình đối với “quê hương cách mạng dựng nên cộng hòa”.Dàn ý số 2I. MỞ BÀIThơ Tố Hữu dễ đến với mọi tấm lòng, không chỉ vì nội dung mà còn do giọng thơ tâm tình ngọt ngào tha thiết và nghệ thuật biểu hiện giàu tính dân tộc. Điều này được bộc lộ khá rõ trong phần đầu bài thơ Việt Thân bài* Giọng thơ tâm tình ngọt ngào tha thiết của Tố Hữu trong Việt Bắc– Bài thơ nói đến nghĩa tình cách mạng nhưng thi sĩ lại dùng giọng của tình thương, lời của người yêu để trò chuyện, giãi bày tâm sự. Cả bài thơ được viết theo lối đối đáp giao duyên của nam nữ trong ca dao, dân ca, và phần đầu này cũng thế – nó là lời giãi bày tâm sự giữa người đi người về xuôi với người ở lại là đồng bào Việt Bắc. Mười lăm năm cách mạng thành mười lăm năm ấy tha mặn nồng, người đi người ở thành mình – ta, ta – mình quấn quýt bên nhau trong một mối ân tình sâu cây nhớ núi nhìn sông nhớ nguồn.– Giọng thơ tâm tình ngọt ngào tha thiết ấy tạo nên âm hưởng trữ tình sâu đậm của khúc hát ân tình cách mạng Việt Bắc, từ khúc hát dạo đầu Mình về mình có nhớ ta… đến những lời nhắn gửi, giãi bày Mình đi có nhớ những ngày – Mình về rừng núi nhớ ai… Ta đi ta nhớ những ngày – Mình đây ta đó, đắng cay ngọt bùi…, đến những nỗi nhớ da diết sâu nặngNhớ gì như nhớ người yêu,Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng từng bản khói cùng sương,Sớm khuya bếp lửa người thương đi về.…..Nhớ người mẹ nắng cháy lưng,Dịu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô.* Nghệ thuật biểu hiện giàu tính dân tộc trong Việt Bắc– Thể thơ Trong phần đầu cũng như cả bài thơ, Tố Hữu đã sử dụng thể thơ dân tộc, đó là thể thơ lục bát. Thi sĩ đã nhuần nhuyễn thể thơ này và có những biến hoá, sáng tạo cho phù hợp với nội dung, tình ý câu thơ. Có câu tha thiết sâu lắng như bốn câu mở đầu, có câu nhẹ nhàng thơ mộng Nhớ gì như nhớ người yêu… lại có đoạn hùng tráng như một khúc anh hùng ca Những đường Việt Bắc của ta… Đèn pha bật sáng như ngày mai lên– Kết cấu Kết cấu theo lối đối đáp giao duyên của nam nữ trong ca dao dân ca là kết cấu mang đậm tính dân tộc. Nhờ hình thức kết cấu này mà bài thơ có thể đi suốt một trăm năm mươi câu lục bát không bị nhàm chán.– Hình ảnh Tố Hữu có tài sử dụng hình ảnh dân tộc một cách tự nhiên và sáng tạo trong bài thơ Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn; mưa nguồn suối lũ; bước chân nát đá sáng tạo từ câu ca dao trông cho chân cứng đá mềm . Có những hình ảnh chắt lọc từ cuộc sống thực cũng đậm tính dân tộc miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai; hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son và đặc biệt là tình đậm đà của tình giai cấpThương nhau chia củ sắn lùi,Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng.– Ngôn ngữ Tính dân tộc được thể hiện rõ nhất trong cặp đại từ nhân xưng ta – mình, mình – ta quấn quýt với nhau và đại từ phiếm chỉ ai. Đây là một sáng độc đáo và cũng là một thành công trong ngôn ngữ thơ ca của Tố Hữu. nhạc điệu Trong bài thơ là nhạc điệu dân tộc với thể thơ lục bát nhịp nhàng, thiết, ngọt ngào, sâu lắng nhưng biến hoá, sáng tạo, không có đơn điệu có hùng tráng như cảnh "Việt Bắc ra quân", trang nghiêm như cảnh buổi họp trung ương, chính phủ…III. Kết bàiGiọng thơ tâm tình ngọt ngào tha thiết và nghệ thuật biểu hiện giàu tính dân của Tố Hữu đã góp phần quan trọng vào thành công của bài thơ Việt Bắc, cho nó nhanh chóng đến với người đọc và vẫn sống mãi trong lòng nhân ta từ khi ra đời cho đến hôm ý số 3I. MỞ BÀINhắc đến Việt Bắc là nhắc đến cội nguồn của cách mạng, nhắc đến mảnh đất trung du nghèo khó mà nặng nghĩa nặng tình – nơi đã in sâu bao kỷ niệm của một thời kỳ cách mạng gian khổ nhưng hào hùng sôi nổi khiến khi chia xa, lòng ta sao khỏi xuyến xao bồi Thân bàiVà cứ thế sợi nhớ, sợi thương cứ thế mà đan cài xoắn xuýt như tiếng gọi "Ta – mình" của đôi lứa yêu nhau. Đúng như lời thơ Chế Lan Viên từng viết "Khi ta ở đất chỉ là nơi ở/ Khi ta đi đất bỗng hóa tâm hồn". Vâng! Việt Bắc đã hóa tâm hồn dào dạt nghĩa yêu thương trong thơ Tố Hữu với những lời thơ như tiếng nhạc ngân nga, với cảnh với người ăm ắp những kỉ niệm ân tình có bao giờ quên được."Ta về mình có nhớ taTa về, ta nhớ những hoa cùng ngườiRừng xanh hoa chuối đỏ tươiĐèo cao nắng ánh dao gài thắt lưngNgày xuân mơ nở trắng rừngNhớ người đan nón chuốt từng sợi giangVe kêu rừng phách đổ vàngNhớ cô em gái hái măng một mìnhRừng thu trăng rọi hòa bìnhNhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung"Tố Hữu là nhà thơ trữ tình chính trị, thơ ông diễn tả những tình cảm cách mạng thật nhẹ nhàng mà cũng thật đậm sâu. Việt Bắc là đỉnh cao của thơ Tố Hữu nói riêng, của thơ ca kháng chiến chống Pháp nói chung. Bài thơ được viết vào tháng 10/1954, khi Trung ương Đảng và Chính phủ, Bác Hồ và cán bộ kháng chiến từ giã "Thủ đô gió ngàn" về với "Thủ đô Hoa vàng nắng Ba Đình". Cả bài thơ là một niềm hoài niệm nhớ thương tuôn chảy về những năm tháng ở chiến khu Việt Bắc rất gian khổ nhưng vui tươi hào hùng. Nhưng có lẽ để lại ấn tượng sâu đậm nhất trong bài ca Việt Bắc có lẽ là đoạn thơ về bức tranh tứ bình với bốn mùa xuân – hạ – thu – đầu đoạn thơ là hai câu thơ giới thiệu nội dung bao quát cảm xúc chung của đoạn thơ"Ta về mình có nhớ taTa về ta nhớ những hoa cùng người"III. Kết bàiCâu thơ đầu tiên sử dụng câu hỏi tu từ "mình có nhớ ta", câu thơ thứ hai là tự trả lời, điệp từ "ta" lặp lại bốn lần cùng với âm "a" là âm mở khiến câu thơ mang âm hưởng ngân xa, tha thiết nồng nàn. Với Tố Hữu, người cán bộ ra đi không chỉ nhớ đến những ngày tháng gian khổ "bát cơm sẻ nửa chăn sui đắp cùng", mà còn nhớ đến vẻ đẹp đáng yêu của Hoa cùng Người. Ở đây, hoa tượng trưng cho vẻ đẹp thiên nhiên Việt Bắc. Còn con người là con người Việt Bắc với tấm áo chàm nghèo khổ nhưng đậm đà lòng son. Hoa và Người quấn quýt với nhau trong vẻ đẹp hài hòa đằm thắm để tạo nên cái nét riêng biệt, độc đáo của vùng đất này. Chính điều ấy đã tạo nên cái cấu trúc đặc sắc cho đoạn thơ. Trong bốn cặp lục bát còn lại câu sáu dành cho nhớ hoa, nhớ cảnh, câu tám dành cho nhớ người. Cảnh và Người trong mỗi câu lại có những sắc thái đặc điểm riêng thật hấp ý số 4I. MỞ BÀIĐông qua, xuân lại tới. Nhắc đến mùa xuân ta liên tưởng ngay đến sức sống mới của cỏ cây, hoa lá, của trăm loài đang cựa mình thức dậy sau mùa đông dài. Mùa xuân Việt bắc cũng vậyII. Thân bài"Ngày xuân mơ nở trắng rừngNhớ người đan nón chuốt từng sợi giang"Bao trùm lên cảnh vật mùa xuân là màu trắng dịu dàng, trong trẻo, tinh khiết của hoa mơ nở khắp rừng "Ngày xuân mơ nở trắng rừng". "Trắng rừng" được viết theo phép đảo ngữ và từ "trắng" được dùng như động từ có tác dụng nhấn mạnh vào màu sắc, màu trắng dường như lấn át tất cả mọi màu xanh của lá, và làm bừng sáng cả khu rừng bởi sắc trắng mơ màng, bâng khuâng, dịu mát của hoa mơ. Động từ "nở" làm sức sống mùa xuân lan tỏa và tràn trề nhựa sống. Đây không phải là lần đầu tiên Tố Hữu viết về màu trắng ấy, năm 1941 Việt Bắc cũng đón bác Hồ trong màu sắc hoa mơ"Ôi sáng xuân nay xuân bốn mốtTrắng rừng biên giới nở hoa mơBác về im lặng con chim hótThánh thót bờ lau vui ngẩn ngơ"III. Kết bàiMùa xuân càng trở nên tươi tắn hơn nữa bởi sự xuất hiện của hình ảnh con người với hoạt động "chuốt từng sợi giang". Con người đẹp tự nhiên trong những công việc hằng ngày. Từ "chuốt" và hình ảnh thơ đã nói lên được bàn tay của con người lao động cần mẫn, tỉ mẩn, khéo léo, tài hoa, nhanh nhẹn, chăm chút đó cũng chính là phẩm chất tần tảo của con người Việt ý số 5I. MỞ BÀITố Hữu là một nhà thơ cách mạng tiêu biểu của phong trào thơ ca Việt Nam trong kháng chiến chống thực dân Pháp. Những tác phẩm của ông như một vũ khí nhằm chống lại quân xâm lược, động viên, khích lệ tinh thần yêu nước của nhân Thân bàiBài thơ "Việt Bắc" được tác giả viết trong những ngày tác giả đóng quân ở vùng Việt Bắc. Bài thơ thể hiện tình quân dân gắn bó, thiết tha sâu sắc, khi chia tay kẻ ở người đi biết bao lưu luyến, lúc chia tay được tác giả viết lên thành những vần thơ nhiều cảm xúc, nghẹn ngào tâm tư tình suốt trong bài thơ là những dòng tâm sự, thể hiện tình cảm giữa mình và ta, giữa quân và dân chứa chan, sâu sắc. Tác giả Tố Hữu là người đã tham gia trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Nên những vần thơ của ông vô cùng giản dị, mộc mạc gần gũi, khi đọc bài thơ lên ta có thể cảm nhận được sự thiêng liêng, nặng trĩu tâm tư trong tình cảm của người chiến sĩBài thơ Việt Bắc được viết theo thể thơ lục bát truyền thống gần gũi, với người nghe. Trong bài thơ nghệ thuật so sánh, ẩn dụ được tác giả Tố Hữu sử dụng rất linh hoạt tài tình thể hiện sự tinh tế trong phong cách ngôn ngữ của tác giả. Đặc biệt bài thơ còn xúc động lòng người khi tác giả phác họa lên một bức tranh tứ bình về thiên nhiên con người Việt Bắc vô cùng tươi về mình có nhớ taTa về ta nhớ những hoa cùng ngườiIII. Kết bài"Ta" và "mình" thể hiện tình quân dân, nhưng với ngôn ngữ mộc mạc, thể hiện sự gắn bó như người thân trong một gia đình, như những người bạn tri kỷ lâu năm. Nay phải cách xa biết bao tâm sự, bao nhiêu lưu luyến không nỡ rời đi “Việt Bắc” là một trong những tập thơ hay nhất của Tố Hữu. Tập thơ này chủ yếu viết về thời kỳ kháng chiến chống Pháp, trong đó “Việt Bắc” được xem là đỉnh cao của thơ Tố Hữu. Bài thơ là một bức tranh trữ tình mà hoành tráng, bao quát cả một diện lớn vé thời gian suốt 15 năm “Nhớ khi kháng Nhật thuở còn Việt Minh”, trên một không gian là toàn bộ Việt Bắc, kéo tràn sang Tây Bắc. Bút cảa Tố Hữu ở bài thơ này tỏ ra rất dồi dào. “Việt Bắc” là một bài thơ dài, không phải đoạn nào viết cũng đểu tay. Nhưng có những đoạn quả thật là đặc sắc mà ở đó người đọc thấy được vẻ đẹp của ngòi bút Tố Hữu Ngày xuân mơ nở trắng rừng,Nhớ người đan nón chuốt từng sợi kêu rừng phách đổ vàng,Nhớ cô em gái hái măng một thu trăng rọi hòa bình,Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung. Bức tranh Ngày xuân mơ nở trắng rừng Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang Đến đây nên xanh trầm tĩnh đã nhường chỗ cho nền trắng tinh khiết của hoa mơ rừng. Hai chữ “trắng rừng” khiến cảnh rừng như bừng sáng. Phải nói rằng đây là một hình ảnh có sức ám ảnh lớn đối với hồn thơ Tố Hữu. Việt Bắc trong nỗi nhớ của Tố Hữu dường như không thể thiếu được sắc hoa này. Về sau, trong bài “Theo chân Bác”, Tố Hữu sẽ viết Ôi sáng xuân nay, xuân 41 Trắng rừng biên giói nở hoa mơ Bác về. Im lặng. Con chim hót Thánh thót bờ lau vui ngẩn ngơ. Trên nễn cảnh ấy hiện ra hình ảnh người Việt Bắc trong một công việc thầm lặng “Nhớ người đan nón chuốt từng sợi gịang”. Hai chữ “chuốt từng” gợi ra được dáng điệu cần mẫn, cẩn trọng và tài hoa. Không biết người đan nón kia gửi vào từng sợi giang nỗi niềm gì, ước mơ gì? Ve kêu rừng phách đổ vàng Nhớ cô em gái hái măng một mình. Trong những bức tranh trên, chúng ta mới chỉ thấy màu sác, đường nét và ánh sáng. Đến đây chúng ta còn nghe thấy được âm thanh của rừng, đó là tiếng nhạc ve. Nhạc ve làm cho không khí trở nên xao động. Phải nói rằng trong các bức tranh ở đây thi Việt Bắc mùa hè là đặc sắc hơn cả. Trong câu thơ, chúng ta thấy dường như có một phản ứng dây chuyền chạy từ đầu đến cuối câu thơ. Ve kêu gọi hè đến, hè đến làm cho những rừng phách ngả sang màu vàng. Ai đã lên Việt Bắc, dễ thấy hình ảnh kỳ lạ của những cánh rừng phách. Trong những ngày cuối cùng của mùa xuân, những cây phách vẫn là màu xanh, nụ hoa vẫn náu kín trong những kẽ lá. Nhưng khi những tiếng ve đầu tiên của mùa hè cất lên thì chúng nhất loạt trổ hoa vàng. Chi cổ vài ba ngày mà những rừng phách đã lênh láng sắc vàng. Chữ “đổ” là một chữ tinh tế. Nó nhấn mạnh vào khía cạnh mau lẹ trong việc biến đổi màu sắc, đồng thời diễn tả những trận mưa hoa vàng rừng phách mỗi khi có một luổng gió ào qua. Bõ ràng, gam màu đến đây đã thay đổi hằn, sấc trắng đã nhường chỗ hẳn cho sác vàng. Dường như âm thanh đã làm đổi thay màu sắc. Trên nền cảnh ấy xuất hiện một hình ảnh lao động đấy kiên nhẫn của một cô gái Việt Bắc “Nhớ cô em gái hái măng một mình”. Hình ảnh này làm toát lên dáng điệu chịu thương, chịu khó, hay lam hay làm, giàu đức hy sinh. Bao bọc lên hình ảnh này dường như chúng ta thấy sự cảm thương kín đáo của người viết. Bộ tranh này kết thúc bằng bức tranh thu. Ba bức tranh trên là cảnh ngày, riêng bức này là cảnh đêm. Bức tranh vẽ ra những ánh trăng rọi qua vòm lá tạo thành một khung cảnh huyển ảo “Rừng thu trăng rọi hoà bình”. Nó xui khiến ta nhớ đến một câu thơ cũng viết vể đêm rừng Việt Bắc của Hồ Chí Minh “Trăng lồng cồ thụ bóng lồng hoa”. Đây đúng là khung cảnh trữ tình dành cho những cuộc hát giao duyên. Cho nên nó là cảnh cuối cùng “Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung”. Chữ “ai” là cách nói bóng gió, ám chỉ người đang hát cùng với mình, làm cho lời lẽ trở nên tình tứ hơn. Và qua tiếng hát chúng ta thấy được phẩm chất ân tình, chung thuỷ của người Việt Bắc. “Ngày xuân mơ nở trắng rừngNhớ người đan nón chuốt từng sợi giang”.- Thiên nhiên cũng là rừng nhưng là một thứ rừng mang vẻ đẹp đặc trưng của mùa xuân Việt Bắc, rừng mơ đang giữa mùa hoa. “Nở trắng rừng” là cả một không gian bát ngát màu trắng, thứ màu trắng tinh khuyết của những cánh hoa mơ. -Hoà hợp với vẻ đẹp thuần khiết và dịu dàng ấy của ngày xuân, hình ảnh con người tuy vẫn là người lao động bình dị, nhưng công việc gợi lên không khí tĩnh lặng, thanh bình “chuốt giang”, “đan nón”. Nhà thơ làm rõ không khí ấy bằng hình ảnh và cả thanh điệu “chuốt” – “từng sợi giang”. tranh thứ ba, mùa hạ“Ve kêu rừng phách đổ vàngNhớ cô em gái hái măng một mình”.- Rừng trong tranh lúc này là “rừng phách”, lại là rừng phách với màu Cấu trúc của câu thơ “Ve” – “kêu rừng phách đổ vàng” còn như cho phép người đọc hiểu rằng tiếng ve kêu khiến rừng phách đổ sang màu vàng, bởi cái màu vàng của rừng phách nhẹ quá, lung linh quá. Thật ra, theo đúng lo-gích, nghĩa của câu thơ là nghe tiếng ve kêu, thấy rừng phách đổ Câu thơ gợi một không gian lấp lánh màu vàng Màu vàng trên cao, mùa vàng phủ đầy mặt đất, mùa vàng lơ lửng giữa trời…- Giữa màu vàng ấy, có những bước chân của một cô gái nhỏ Việt Bắc đang hái măng trong rừng. Thật tĩnh lặng và đáng yêu.+ Tố Hữu không chỉ nói cô gái, mà nói là “cô em gái”, rất trìu mến. + Tố Hữu gọi việc lấy măng là “hái măng”, giống như việc hái hoa hái quả. Thật ra, việc lấy măng rừng không phải là việc nhẹ nhàng như hái hoa hái quả. + Hình ảnh “cô em gái” còn thêm hai tiếng “một mình”, khiến cho bức tranh càng tăng thêm vẻ yên bình. g. Bức tranh thứ tư, mùa thu Việt Bắc “Rừng thu trăng rọi hoà bình Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung”. - Bức tranh rất đặc biệt rừng, không rõ rừng gì, chỉ biết là “rừng thu”. Màu của rừng cũng là màu của “trăng rọi hoà bình”, màu của ánh trăng toả xuống lá rừng. - Bốn tiếng “trăng rọi hoà bình” gợi lên hai liên tưởng Ánh trăng dịu dàng, yên ả toả xuống rừng thu; cũng có thể hiểu là ánh trăng chiếu rọi phong cảnh hoà bình, trong một đêm thu hoà bình sau khi chiến tranh vừa kết Giữa cảnh rừng thu ấy, con người xuất hiện trong bức tranh cũng rất độc đáo không thấy hình dáng hay màu sắc, chỉ nhận ra từ âm thanh “tiếng hát”.+ “tiếng hát ân tình thuỷ chung” Thật hợp với bức tranh dưới ánh trăng thu.+ Liên tưởng Một đêm trăng thu sau ngày hoà bình trở lại, nhân dân Việt Bắc hội tụ dưới ánh trăng thanh bình, những đôi trai gái vui rừng được hát với những câu hát ân tình, trao nhau những lời hò hẹn thuỷ Kết thúc bộ tranh tứ bình bằng một bức tranh đầy đủ nhân hậu, lạc quan. Ta có thể thấy cảnh và người Việt Bắc chuyển từ quá khứ sang hiện tại. Người đọc có thể nhận ra ý đồ nghệ thuật của nhà thơ vì sao không kết cấu bộ tranh tứ bình theo trình tự bốn mùa xuân, hạ, thu, đông để rồi cuối bức tranh phải là mùa đông. Nhà thơ giã từ biệt Bắc giữa mùa thu. Kỉ niệm sau cùng, đẹp nhất là mùa thu, là phong cảnh hoà bình.

ngày xuân mơ nở trắng rừng